thi vinh phap hoa kinh

Tổ chức thực hiện hiệu quả Chỉ thị 13/CT-TTg ngày 29-8-2022 của Thủ tướng Chính phủ về một số giải pháp thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững. Thường xuyên theo dõi sát tình hình, diễn biến thị trường bất động sản, thị Phẩm 27: Chúc Lụy. Nghe như vầy: Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương xá, núi Linh thứu, cùng chúng đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm vị. Các ngài đều là những bậc không còn vướng mắc, phiền não đã dứt sạch, không còn dục trần, hoàn toàn tự tại, việc lợi mình Phương tiện chuyên chở khách bằng xe hơi ở miền Nam trước 1975 rất đa dạng. Thời Pháp thuộc-Hòn Ngọc Viễn Đông trước 1954, người Pháp đã xử dụng một số xe chở khách nhỏ lớn trong phạm vi thành phố Saigòn Chợ Lớn và các tỉnh phụ cận như Tây Ninh, Vũng Tàu, Vĩnh Tin tức về: Chủ nhật, 09/10/2022 - 08:44. Phát động Cuộc thi Sinh viên Tài năng Kinh doanh số 2022. Ngày 8/10, tại trường ĐH Kinh tế Quốc dân, Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (VECOM) với sự hỗ trợ của Trường ĐH Kinh tế Quốc dân long trọng tổ chức Lễ phát động Vòng thi bán kết và chung kết Hội thi Nhà nông đua tài toàn quốc lần thứ V, năm 2022 vừa diễn ra sôi nổi, hào hứng tại tỉnh An Giang tối 1-10 16 đội tuyển nông dân, từ 4 khu vực thi trong cả nước tranh tài. 4 đội xuất sắc nhất là Tuyên Quang, Vĩnh Phúc, Quảng Nam và An Giang đã gặp nhau tại trận chung kết xếp hạng tối 1-10. Site De Rencontre Entre Ado Gratuit. PHÁP HOA KINH THÔNG NGHĨA ĐẠI SƯ ĐỨC THANH HT. THÍCH TRÍ TỊNH dịch –giảng NXB TÔN GIÁO LỜI ĐẦU Nammô A-di đà-Phật Kính bạch chư tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni và quý Phật tử! Quyển Pháp Hoa Kinh Thông nghĩa do Hòa thượng Vạn Đức dịch giảng, nguyên là Viện trưởng Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm. Từ năm 1971 đến năm 1973. Hòa thượng bắt đầu giảng về 3 bộ kinh - Kinh Pháp Hoa Thông Nghĩa - Kinh Đại Phương Quảng Viên Giác Đại Sớ - Kinh Lăng Già Tâm Ấn Lúc đó tôi chỉ nghĩ là ghi lại phần giảng giải để có dịp nghiên cứu sâu hơn. Vì thế, trong khi ghi chắc chắn rất nông cạn, bởi lẽ 1. Đang học nên sự hiểu biết chưa đạt 2. Vì trí nghiệp dày, làm sao hiểu được Thánh ý. Hơn nữa, Hòa thượng Huệ Nghiêm thường dạy “Nếu trong giáo lý Phật dạy, minh có thể hiểu sai mà đem áp dụng tu chỉ có một mình có lỗi; nếu đem giảng dạy thì thêm một số người không ít. Còn viết lên sách in để phổ biến, tội đó chẳng phải nhỏ, vì sách lưu truyền qua nhiều thế hệ”. Tuy nhiên, hôm nay nhân có duyên lành,do trong Hội Bố Thí in ấn kinh ở chùa Vạn Đức muốn phổ biến rộng cho hàng Phật tử trong các Đạo tràng Pháp Hoa được hiểu biết về ý nghĩa của kinh, mới đem xin giấy phép để in. Kính bạch chư tôn đức Tăng Ni! Tôi chỉ là một Tỳ-kheo ngu dốt và cũng lần đầu làm việc này. Tôi xin thành tâm sám hối vì chắc không tránh khỏi nhiều lỗi lầm sai sót. Kính mong quý Ngài khi xem qua kinh lời dạy của đức Phật, xin nhận được ý và quên đi phần chữ nghĩa, thì Tỳ-kheo ngu dốt tôi mới khỏi sa vào địa ngục. Ngưỡng mong chư tôn đức hoan hỷ chỉ dạy cho những chỗ sai sót trong phần ghi lại lời giảng giải, để sau này có tái bản sẽ đuợc hoàn chỉnh hơn. Thành tâm cảm tạ. Huệ Nghiêm, ngày 19 tháng 02 Bính Tuất Tỳ-kheo Thích Minh Huệ Vui lòng đăng nhập trước khi thêm vào playlist! Tải Nhạc 128 Kbps Thêm bài hát vào playlist thành công Thêm bài hát này vào danh sách Playlist Bài hát thi vinh phap hoa kinh 3 do ca sĩ Bich Phuong, Nguyen Duc thuộc thể loại The Loai Khac. Tìm loi bai hat thi vinh phap hoa kinh 3 - Bich Phuong, Nguyen Duc ngay trên Nhaccuatui. Nghe bài hát Thi Vịnh Pháp Hoa Kinh 3 chất lượng cao 320 kbps lossless miễn phí. Ca khúc Thi Vịnh Pháp Hoa Kinh 3 do ca sĩ Bích Phượng, Nguyên Đức thể hiện, thuộc thể loại Thể Loại Khác. Các bạn có thể nghe, download tải nhạc bài hát thi vinh phap hoa kinh 3 mp3, playlist/album, MV/Video thi vinh phap hoa kinh 3 miễn phí tại PHẨM 20 THƯỜNG BẤT KHINH BỒ TÁT Lúc bấy giờ Phật bảo Bồ tát Đắc Đại Thế “Ngươi nay nên biết, nếu Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di trì kinh Pháp Hoa mà bị mắng nhiếc chê bai, thì người mắng nhiếc chê bai mắc tội báu rất lớn, còn người trì kinh được công đức thanh tịnh lục căn. Này Đắc Đại Thế ! thuở xưa cách nay vô lượng vô biên số kiếp, có Phật hiệu Oai Âm Vương ra đời, nhằm thời kiếp Ly suy, tại nước Đại Thành. Phật vì người cầu quả Thanh Văn, nói Pháp Tứ đế; vì người cầu quả Bích Chi Phật, nói pháp Thập Nhị Nhân Duyên; vì hàng Bồ tát cầu Vô thượng giác, nói pháp sáu Ba la mật dẫn dắt đến cứu cánh Phật tuệ. “Đắc Đại Thế ! Phật Oai Âm Vương sống lâu 40 ức na do tha hằng sa kiếp ! Chánh pháp của Phật trụ trong một số kiếp nhiều như vi trần của một thế gian ! Tượng pháp trụ trong một số kiếp nhiều như vi trần của bốn châu. Sau khi Phật Oai Âm Vương diệt độ, Chánh pháp, Tượng pháp diệt hết có đức Phật khác ra đời, cũng có một hiệu là Oai Âm Vương. Sau đó, tuần tự, có hai muôn ức Phật ra đời cùng một danh hiệu. Phật Oai Âm Vương đầu tiên diệt độ và sau lúc Chánh pháp diệt hết trong thời Tượng pháp, các Tỳ kheo tăng thượng mạn có thế lực lớn. Bấy giờ có một Bồ tát tên Thường Bất Khinh. Sở dĩ có tên nầy là vì mỗi khi gặp các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, Bồ tát lễ lạy khen ngợi “Tôi rất kính quý vị, không dám khinh quý vị. Vì quý vị đều đi trên đường Bồ tát và sẽ được thành Phật”. Bồ tát Thường Bất Khinh không hề đọc kinh điển, chỉ thực hành việc lễ bái, thậm chí hễ xa thấy tứ chúng là lạy nói “Tôi không dám khinh quý vị. Vì quý vị đều sẽ được thành Phật”. Trong tứ chúng có người lòng bất tịnh, giận mắng “Ông vô trí Tỳ kheo ở đâu đến mà nói tôi chẳng dám khinh quý vị, rồi lại thọ ký cho chúng tôi sẽ thành Phật; chúng tôi không dùng lời thọ ký bá láp đó đâu”. Tuy trải qua nhiều năm bị mắng nhiếc, Bồ tát Thường Bất Khinh không giận hờn, cứ luôn nói “Quý vị sẽ làm Phật”. Lắm khi bị đánh bằng gậy, bị ném gạch đá, Bồ tát chạy tránh ra xa, miệng vẫn nói “Tôi chẳng dám khinh quý vị, quý vị đều sẽ thành Phật”. Vì đó mà ông được gọi tên là Thường Bất Khinh. Lúc Bồ tát Thường Bất Khinh sắp mệnh chung, trong hư không nghe trọn hai mươi ngàn muôn ức bài kệ kinh Pháp Hoa của Phật Oai Âm Vương đã nói thuở trước. Nghe xong Bồ tát sống thêm hai trăm muôn ức na do tha tuổi, vì người rộng nói kinh Pháp Hoa. Lúc đó, những người trong tứ chúng trước kia đã khinh rẻ Bồ tát Thường Bất Khinh, nay thấy Bồ tát được sức thần thông, sức nhạo thuyết biện tài, sức đại thiện tịch và nghe Bồ tát thuyết pháp, đều tin phục và theo làm đệ tử. “Bồ tát Thường Bất Khinh giáo hóa ngàn muôn chúng sanh khiến không suy thoái trên đường Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Những chúng sanh ấy, sau khi mệnh chung, được gặp hai ngàn ức Phật đồng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh trong hội Pháp Hoa. Nhờ nhân duyên đó, những chúng ấy gặp lại hai ngàn Phật đồng hiệu Vân Tư Tại Đăng Vương ở trong pháp hội của các đức Phật đó thọ trì, đọc tụng vì hàng tứ chúng nói kinh Pháp Hoa, do vậy mà sáu căn được thanh tịnh, thuyết pháp cho tứ chúng nghe mà không sợ sệt. “Này Đắc Đại Thế ! Bồ tát Thường Bất Khinh thuở ấy đâu phải người nào lạ ! Chính là thân ta hiện nay vậy. Nếu đời trước ta chẳng thọ trì, đọc tụng và giải nói cho người khác nghe kinh nầy, thì ta chẳng thể mau được quả Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì ta đã ở trong cõi nước của chư Phật, thọ trì, đọc tụng, vì người khác nói kinh nầy, nên mau được quả Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”. “Này Đắc Đại Thế ! những Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di thuở ấy, vì khinh tiện ta, nên trong hai trăm ức kiếp luôn luôn chẳng gặp Phật, chẳng gặp Pháp, chẳng thấy Tăng, ngàn kiếp ở địa ngục chịu khổ não lớn. Hết tội rồi, lại gặp Bồ tát Thường Bất Khinh giáo hóa cho đạo quả Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”. “Này Đắc Đại Thế, bốn chúng đã khinh khi Bồ tát Thường Bất Khinh nào phải ai lạ, chính đó là những người hiện nay đều là bậc bất thối chuyển trên đường chánh giác, tức là bọn 500 Bồ tát của Bạc-đà-bà-la, bọn 500 Tỳ kheo của Sư tử Nguyệt, bọn 500 Ưu bà tắc của Ni Tư Phật, đang ở trong pháp hội nầy”. “Này Đắc Đại Thế, phải biết kinh Pháp Hoa này rất lợi ích cho các Đại Bồ tát có thể giúp họ đến Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cho nên sau khi Phật diệt độ, phải thường thọ trì, đọc tụng, giải nói”. Đức Phật bèn đọc một bài kệ nhắc lại nghĩa trên. THÂM NGHĨA Thường Bất Khinh là danh hiệu do các Tỳ kheo và những người Tăng thượng mạn đặt, để tặng cho người với ác ý mỉa mai khinh thị. Nhưng với hệ giáo lý thuần viên độc diệu của Pháp Hoa, Thường Bất Khinh Bồ tát là một âm thanh réo gọi, thức tỉnh những ai còn mê mệt, mơ hồ về Tri Kiến Phật, và khả năng thành Phật của mình. Trong tất cả thứ khinh, khinh khả năng thành Phật của mình là tai họa, là thiệt thòi lớn lao hơn hết. Chàng cùng tử sở dĩ đói khổ lang thang, chỉ vì không nhận biết ở vạt áo mình có hạt bảo châu vô giá. Vấn đề khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến. Vấn đề Phật thọ ký tất cả chúng sanh đều sẽ thành Phật, đến đây càng thấy rõ, những vấn đề đó đã có từ thời Phật Oai Âm Vương, mà người truyền bá tích cực cái chân lý đó, là Bồ tát Thường Bất Khinh vậy. Phật Oai Âm Vương xuất thế độ sanh hai muôn ức Phật tiếp nối ra đời có cùng một hiệu Oai Âm Vương như vậy. Sự việc đó, nhằm nói lên cái ý Tâm trước tâm sau là một. Chân lý trước chân lý sau không khác. Đề cập sự kiện Oai Âm Vương Phật ở phẩm 20 là một dấu hiệu chỉ dẫn hướng đi, để dẫn đến hành pháp, cách tu quán niệm “Diệu Âm” và “Quán Thế Âm” ở phẩm 24 và 25 sau nầy. Vấn đề âm văn là vấn đề quan trọng bậc nhất, vì phù hợp căn cơ chúng sanh ở cõi Ta bà, sau khi so sánh 25 cách tu qua 18 giới và 7 đại, đúc kết thành quả, Bồ tát Văn Thù bạch Phật “Phật xuất Ta bà giới Thử phương chân giáo thể Thanh tịnh tại âm văn Dục thủ tam ma đề Thực tùng văn trung nhập” Dịch Cách giáo hóa cõi nầy Bén nhạy ở âm văn Muốn được tam ma đề Phải từ nghe mà nhập Kinh Thủ Lăng Nghiêm Oai Âm Vương Phật, phải được hiểu là Phật tâm, tiếng lòng trong trắng của con người, khi con người còn “oai quyền”, còn khả năng tự chủ. Phật xuất hiện ở kiếp Ly Suy, nghĩa là ở vào thời điểm mà tâm không có các suy tàn bệ rạc Tham, sân, si, mạn….Đó là thời điểm Phật Oai Âm Vương hiện ở lòng ta. Và cũng chính lúc đó là lúc Oai Âm Vương Phật ở nước “Đại Thành” viên mãn nhất. Nếu là thời kỳ chánh pháp, những Tỳ kheo tăng thượng mạn chưa có cơ hội thao túng hoành hành. Bồ tát Thường Bất Khinh ở vào thời kỳ tượng pháp bấy giờ tăng thượng mạn Tỳ kheo….có thế lực lớn mới áp đảo người lành, chỉ vì cái tội nói lên sự thật “Tôi không dám khinh các Ngài Vì các Ngài đều sẽ thành Phật”. Tu nhơn thành Phật, cốt ở chỗ nhận thức chân lý rồi thực hành những gì phù hợp quy luật của chân lý. Nhận thức rõ quặng vàng rồi đem đốt, nung nấu, lọc thì vàng ròng sẽ hiển hiện ra. Bồ tát Thường Bất Khinh là người thực hành chân lý chỉ dạy ở kinh, mà không chuyên đọc tụng kinh điển qua ngữ ngôn văn tự. Tế Thiên Hòa thượng nói “Tụng kinh giả minh Phật chi lý” Tụng kinh cốt để hiểu lý Phật dạy cái gì. Phải “sắp chết”, có khi cần phải chết thật cũng nên. Có chết đi cái cũ kỹ, cái hạn hẹp, cái ô trược để có cái mới mẻ hơn, cái thanh tịnh hơn. Bồ tát Thường Bất Khinh chỉ qua một cơn “sắp chết” mà thâm nhập Pháp Hoa tam muội, vượt hơn gấp hai mươi ngàn muôn ức lần. Qua một cơn “sắp chết” để rồi sống thêm hai muôn trăm ức na do tha tuổi, để vì người giảng nói Pháp Hoa. Đó là sự phủ định để tiến lên theo đường xoắn ốc trong quá trình tu tập vậy. Chánh nghĩa sẽ thắng mặc dù quá trình tranh đấu có gian khổ gay go. Chân lý sẽ thắng mặc dù bọn người tăng thượng mạn, bọn người lợi dưỡng, bọn người kiến thủ áp đảo lấn lướt một thời. Bồ tát Thường Bất Khinh thành công trong giải thoát tự tại, trong đại thiện tịch của mình. Nhóm người tăng thượng mạn…cuối cùng quay về quy thuận phục tùng chân lý. Chánh nghĩa sáng ngời, chân lý luôn luôn tỏ rạng. Bồ tát Thường Bất Khinh an nhiên tự tại giảng kinh Pháp Hoa ở pháp hội của hai muôn ức Phật cùng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh. Và trong pháp hội của hai nghìn Phật cùng hiệu Vân Tự Tại Vương. Nói trắng ra Bồ tát Thường Bất Khinh đường hoàng tự tại giảng nói kinh Pháp Hoa hướng dẫn chúng sanh đi trên con đường Phật, dưới bầu vũ trụ thênh thang, trời quang mây sáng, từ kiếp nầy sang kiếp khác, để hoàn thành sứ giả Như Lai, bồi dưỡng mãi lên cái nhân thành Phật của mình. Những người mắng nhiếc đánh đập Bồ tát Thường Bất Khinh, nghìn kiếp ở địa ngục a tỳ, hai trăm ức kiếp không gặp Phật -Pháp – Tăng. Đó là điều chí lý. Bởi vì, họ không chịu sống trong chân lý, trong ánh sáng thì họ sống trong mê mờ, trong bóng tối vậy. Sống trong mê mờ, trong bóng tối thì họ sẽ chịu khổ dài dài trong địa ngục A tỳ. Bởi vì A tỳ ngục có nghĩa là chỗ thọ khổ liên tục, không có lúc tạm xả hơi. Không biết mình có Phật chất, không hiểu được Tri Kiến Phật của mình, thì đừng mong gì thấy Phật ở một nơi khác. Pháp và Tăng cũng vậy. Người Phật tử phải học kỹ ba pháp tự quy y - Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo phát vô thượng tâm. - Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng trí huệ như hải. -Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng nhất thiết vô ngại. Hiểu rõ ý nghĩa tam tự quy y, ta cũng có gặp gỡ Phật – Pháp – Tăng thường xuyên trong đời sống hằng ngày của ta đó. Xưa kia là Bồ tát Thường Bất Khinh, nay là Phật Thích Ca hiện tại. Xưa kia là những người tăng thượng mạn Tỳ kheo và cư sĩ, nay là nhóm ông Bạt-đa-la năm trăm Bồ tát. Nhóm ông Sư Tử Nguyệt 500 Tỳ kheo. Nhóm ông Ni Tư Phật 500 Ưu Bà tắc. Qua câu chuyện “bổn sanh, bổn sự” đó, người Phật tử thấy rằng Gieo giống sớm thì thu hoạch sớm. Chần chờ ương hạt thì trái chín muộn hơn. Nhưng có cái vinh hạnh ưu việt chung cho tất cả mọi người. Dù sớm, dù muộn hạt giống Phật của mỗi người không đời nào mất ! Người Phật tử phải luôn luôn đừng khinh mình Thường Bất Khinh. Mỗi chúng ta phải là một Bồ tát Thường Bất Khinh đối với chúng ta. Ngày đêm ta nên tự nhủ “Ngươi sẽ thành Phật”. SHARE THIS Đây là bộ Pháp Âm mp3 Kinh Pháp Hoa Giảng Luận do cố Hòa Thượng Thích Thông Bữu thuyết giảng trong Đạo Tràng Diệu Pháp Liên Hoa tại Viêt Nam từ năm 1997 đến 2000. Bài 94 và 95, Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát được bổ túc vào ngày xin cám ơn sự đóng góp cùa bác đạo hữu Chúc Trực. Bài 37, Phẩm Chúc Lụy đã được bổ túc nhờ sự đóng góp của cô Diệu Thảo ở Úc. Các thời pháp sau đây vẫn còn bị thiếu sót 52, 54, 56, 57, và 62 - Nếu ai có các thời pháp này để bổ xung xin hãy liên lạc HueTri SỬ HÒA THƯỢNG THƯỢNG THÔNG HẠ BỮUHòa thượng THÍCH THÔNG BỬU thế danh TRẦN THƯỢNG HIỀN, sinh ngày 02-09-1936 Bính Tý tại xã Xuân Quang 2, huyện Đồng Xuân, Tỉnh Phú Yên. Ngài xuất thân trong gia đình nhiều đời thâm tín Đạo Phật. Thân phụ là cụ ông Trần Qúa tự Nguyễn Nghiêm, pháp danh Thiện Hóa, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Ngã, pháp danh Quảng Ngộ. Gia đình có ba anh em, ngài là con thứ hai. Thời niên thiếu, ngài đã tham gia sinh hoạt gia đình phật tử huyện Đồng Xuân. Sớm nhận ra đời người vô thường giả hợp, năm 1956 ngài xin song thân cho xuất gia tu hành. Được song thân đồng ý, ngài đến chùa Long Hà, xã Xuân Long, huyện Đồng Xuân theo hầu Hòa Thượng Thích Như Tâm. Đến năm 1957 ngài vào Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa tìm cầu học hỏi Phật pháp, duyên lành gặp được Hòa Thượng Thích Quảng Đức tại tổ đình Thiên Bửu “thượng”, ngài khẩn cầu xin làm đệ tử và được Hòa Thượng hoan hỉ tiếp nhận, cho pháp danh Đồng Phước. Sau đó, được tin thân phụ bệnh nặng ngài đành về lại quê hương chăm sóc, khi người khỏi bệnh ngài trở vào Ninh Hòa theo thầy, thì lúc đó Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã trở vào Nam hoằng hóa Phật pháp. Thầy trò không gặp nhau nên ngài cầu Hòa Thượng Thích Viên Giác chùa Giác Hải Vạn Gĩa làm y chỉ sư nương tựa tu học. Để có giới đức trang nghiêm thân tâm, thăng tiến trên đường giải thoát, năm 1960 ngài đã thọ giới tỳ kheo Bồ Tát. Đến năm 1962, được tin Hòa Thượng Thích Quảng Đức phổ hóa Phật pháp tại Sài Gòn, ngài xin Hòa Thượng y chỉ sư cho vào Nam gặp thầy tổ. Khi gặp lại Hòa Thượng bổn sư, ngài một mực hầu thầy, tiến tu đạo hạnh và được bổn sư ban pháp tự Thông Bửu. Gặp lúc nước nhà đấu tranh dành độc lập, Phật giáo cũng không thể đứng ngoài làm ngơ, nhất là năm 1963 Phật giáo bị lâm vào pháp nạn. Hòa Thượng bổn sư và ngài dấn thân vào cuộc đấu tranh cho sự trường tồn của đạo pháp và dân tộc, mà đỉnh cao của cuộc đấu tranh là ngọn lửa tự thiêu của Bồ Tát Quảng Đức làm chấn động lòng người, kéo theo sự sụp đổ triều đại Ngô Đình Diệm sau đó. Cuộc đấu tranh của Phật giáo không dừng lại, mà vẫn tiếp diễn, tổ đình Quán Thế Aâm trở thành nơi trung tâm phát xuất những phong trào xuống đường rầm rộ ở Gia Định. Tổ đình cũng là nơi cơ sở hoạt động nội thành, in ấn, phát tán tài liệu cách mạng trước 1975, trong đó có in và bí mật phổ biến quyển Tù Chính Trị, gây xôn xao dư luận quần chúng trong nước và nước ngoài thời bấy giờ. Trước khi tự thiêu, Hòa Thượng bổn sư gởi gắm ngài cho chư tôn đức Giáo Hội giúp đỡ kế thế trụ trì tổ đình Quán Thế Âm. Với tâm nguyện phát triển tổ đình làm nơi tu học cho hàng xuất gia và tại gia, năm 1965 ngài đã cung thỉnh Hòa Thượng Thích Vạn Ân chùa Hương Tích, Phú Yên về tổ đình chứng minh. Thời gian này ngài cầu pháp với Hòa Thượng, được ban pháp hiệu Viên Khánh và được trao truyền pháp hành trì mật tông. Do nhu cầu phật sự, Ban Đại Diện Phật Giáo tỉnh cung thỉnh Hòa Thượng Thích Vạn Aân về lại Phú Yên làm chứng minh đạo sư Giáo Hội, nên ngài cung thỉnh Hòa Thượng Thích Huyền Cơ về chứng minh tổ đình, tiếp tăng độ chúng. Ngài luôn ý thức muốn đạt đến chỗ giải thoát, cần phải có pháp tu, do đó cả cuộc đời ngài thực hiện theo sự chỉ giáo của Bồ Tát Quảng Đức về phương pháp hành trì kinh Pháp Hoa và tu tập theo pháp mật tông của Hòa Thượng Thích Vạn Ân. Đây là hai pháp môn ngài rất tâm đắc. Đồng thời nhận ra rằng, sự kế thừa mạng mạch Phật pháp phải cần đào tạo tăng tài, nên năm 1964 ngài thu nhận 22 học tăng từ các tỉnh về Sài gòn tu học, trong đó có những vị hiện nay đã thành danh như Hòa Thượng Thích Quảng Thiện, Hòa Thượng Thích Tịnh Từ … . Năm 1965 ngài mở mang tổ đình thành tu viện và từ đó cho đến nay ngài đã nhận 31 đệ tử xuất gia và cầu pháp. Đặc biệt năm 1967, ngài mở trường hạ, tổ chức giới đàn Sa di tại tổ đình, ngài làm hoá chủ kiêm đàn chủ. Những năm 1968 – 1974 liên tục mở các khóa an cư kiết hạ, mời giảng sư giảng dạy kinh luật luận cho chư tăng. Song song với việc tiếp tăng độ chúng, ngài còn chú trọng đến công tác giáo dục và đào tạo tăng tài, nên đã tham gia giảng dạy tại trường cao trung Phật học Đại Tòng Lâm, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Ngoài ra, ngài còn giảng dạy những chuyên đề Phật học tại các trường Phật học và các trường hạ khắp Bắc Trung Nam trong dịp hướng dẫn phật tử hành hương cúng dường an cư kiết hạ. Để phổ hóa sâu rộng giáo lý Đạo Phật vào quần chúng, năm 1964 – 1985 ngài đã tổ chức đạo tràng Diệu Pháp Liên Hoa tại tổ đình Quán Thế Âm, giảng dạy cho phật tử, tín đồ nắm rõ phương pháp tu hành. Năm 1991 ngài thành lập sáu liên chúng đưa đạo tràng vào sự tu học có tổ chức. Cung thỉnh 14 vị Hòa Thượng, Thượng Tọa thành lập Ban giáo thọ giảng dạy giáo lý cho phật tử. Và ngài cũng quan tâm đến thế hệ trẻ, nên năm 1965 thành lập gia đình phật tử Chánh Đức, hướng dẫn các em học tập giáo lý nhà Phật. Chẳng những quan tâm truyền bá giáo lý Phật giáo cho giới tăng ni, phật tử, mà ngài còn cố gắng đưa tinh thần đạo Phật rộng khắp qua mảng văn hóa để làm lợi lạc quần sanh như - 1965 sáng lập và làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tập san “Sử liệu thức”. - 1966 thành lập “Ấn quán Phổ Đà Sơn” và làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp chí An Lạc, tuần báo An Lạc. - Biên soạn Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa giảng luận 2 tập, Phổ Môn giảng luận, Phật pháp căn bản, 25 bài giảng Phật pháp, Quản trị học Phật giáo, 36 pháp điều thân. - Sáng tác Giảng Sư Bảy Đức Tính Ưu Việt, Truyện ngắn triết lý Phật giáo bằng tranh, Thi phẩm Từng Giọt Ma Ni. - Chủ biên nội san tổ đình Quán Thế Âm từ năm 1999 –2007. - Phát hành một số băng đĩa giảng Phật pháp của ngài, băng đĩa phổ nhạc một số bài thơ trong thi phẩm Từng Giọt Ma Ni. Ngoài hạnh nguyện hoằng pháp lợi sanh, ngài còn tổ chức các chuyến hành hương cúng dường các trường hạ trong nước suốt mười năm 1995 – 2005 và vận động phật tử phát tâm giúp dân nghèo, cứu trợ đồng bào thiên tai bão lụt. Là Trưởng tử của Bồ Tát Quảng Đức, được kế thế trụ trì tổ đình Quán Thế Aâm ngôi chùa thứ 31 và cuối cùng của Bồ Tát, ngài có trách nhiệm trùng tu, mở rộng ngôi tổ đình thành nơi trang nghiêm thờ phụng tam bảo và xây dựng cơ sở nhà tăng, phòng ốc để chư tăng có nơi tu học. Qúa trình trùng tu đã thực hiện qua các giai đoạn - 1964 xây dựng dãy nhà tăng. - 1966 làm lễ đặt đá trùng tu tổ đình. - 1969 khởi công xây cất ngôi chánh điện. - 1971 xây dựng dãy nhà lưu niệm Bồ Tát Quảng Đức và phòng khánh tiết. - 1983 tạo tượng Bồ Tát Quán Thế Aâm Thập Nhứt Diện. - 1992 xây bảo tháp Lửa Từ Bi và đúc tượng đồng Bồ Tát Quảng Đức. - 1994 xây bảo tháp chánh điện. - 2000 đúc tượng đồng Đức Phật Thích Ca. Năm 1986 ngài còn khai sơn ngôi chùa Quảng Đức tại Mađagui, huyện Đạ Oai, Tỉnh Lâm Đồng. Năm 1998 xây dựng nhà từ đường Bồ Tát Quảng Đức tại xã Tu Bông, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Năm 2000 trùng tu chùa Thiên Phước huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang ngôi chùa thứ 30 của Bồ Tát Quảng Đức khai sơn. Năm 2002 tái thiết chùa Phước Huệ Hàm Long tại xã Xuân Quang 2, Huyện Đồng Xuân, Tỉnh Phú Yên. Mặc dù Phật sự bề bộn, ngài vẫn dành thời gian tham gia công tác Giáo Hội và đã giữ các chức vụ - Năm 1966 – 1975 Chánh thư ký Ban Đại Diện GHPGVNTN tỉnh Gia Định. - Năm 1967 – 1974 Sáng lập viên Tổng Đoàn Thanh Niên Tăng Ni Sài Gòn – Gia Định và giữ chức vụ Phó Tổng Đoàn . - Năm 1972 – 1975 Tổng thư ký Tổng Vụ cư sĩ GHPGVNTN. - Năm 1975 – 1977 Chánh Đại Diện GHPGVNTN tỉnh Gia Định. - Năm 1977 – 1981 Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ cư sĩ GHPGVNTN. - Năm 2002 Đại hội Phật giáo toàn quốc nhiệm kỳ 5, Trung Ương GHPGVN chính thức tấn phong ngài lên hàng giáo phẩm Hòa Thượng. - Năm 2003 Trung Ương MTTQVN mời ngài vào thành viên Hội Đồng Tư Vấn tôn giáo và sắc tộc Trung Ương. Ngài tính tình vui vẻ, ưa chuộng văn chương, hiếu khách, giao thiệp rộng rãi, nên được nhiều người kính mến, giới văn nghệ sĩ thường đến với ngài. Các giới phật tử về tổ đình tu học ngày càng đông. Khách thập phương đến chiêm bái, tìm hiểu về Bồ Tát Quảng Đức ngày càng nhiều. Với sự thông minh, ý chí và nghị lực phi thường, với tấm lòng bao la trải rộng, ngài đã hy sinh suốt cuộc đời mình cho đạo pháp, quê hương và dân tộc. Đến những năm tháng cuối đời, dù bệnh tật càng lúc càng nặng, nhưng Hòa Thượng vẫn cố gắng tiếp tục giảng dạy Phật pháp cho chư tăng ni, phật tử và vẫn chỉ đạo sự sinh hoạt tổ đình một cách đều đặn. Trải qua một thời gian lâm bệnh, dù được các cấp Giáo Hội quan tâm, môn đồ pháp quyến chăm sóc chu đáo, các y bác sĩ bệnh viện tận tình chữa trị, nhưng bệnh tình của ngài không thuyên giảm. Đến hồi nhân duyên đã mãn, ngài thâu thần thị tịch tại tổ đình Quán Thế Aâm lúc 21 giờ ngày 14 tháng giêng năm Đinh Hợi tức ngày 02-03-2007, trụ thế 72 năm, 47 giới lạp. Tuy ra đi về cõi Phật, nhưng hình ảnh và đức độ của ngài vẫn còn mãi trong lòng môn đồ pháp quyến, tăng ni và phật tử xa duy Quán Thế Âm đường thượng tự Lâm Tế Chánh Tôn Tứ Thập Tam Thế, huý thượng Đồng hạ Phước tự Thông Bửu hiệu Viên Khánh hòa thượng giác linh tân viên tịch đài tiền chứng giám. Trong kho tàng kinh điển ại Thừa, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa là bộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên Thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản. Các vị thiền sư Việt Nam đời Lý Trần cũng thường chú trọng trì tụng giảng dạy kinh Pháp Hoa song song với kinh Viên Giác, Kim Cang. Hai thiền sư Bảo Tịnh và Minh Tâm dưới đời Lý khoảng năm 1034 suốt 15 năm trì tụng kinh Pháp Hoa chưa từng trễ nải. Thiền sư Thông Biện, vị thiền sư thông thái đời Lý Thánh Tông, từng trả lời Phù Thánh Cảm linh nhân hoàng hậu về các câu hỏi liên quan lịch sử truyền bá Phật Giáo tại Việt Nam, Ngài thường dùng kinh Pháp Hoa dạy người sửa mình, nên người bấy giờ gọi sư là Ngộ Pháp Hoa. Thiền sư Chân Không tịch năm 1100 lúc 18 tuổi, tầm sư học đạo, nhân đến hội giảng của Thảo Nhất tại Chùa Tĩnh Lư núi ông Cứu nghe giảng kinh Pháp Hoa, bỗng nhiên tỏ ngộ. Sau đó Ngài được vua Lý Nhân Tông mời vào đại hội giảng kinh Pháp Hoa. Bấy giờ Thái Úy Nguyễn Thường Kiệt tức Lý Thường Kiệt và thứ sử Lạng Châu là tướng quốc Thân Công càng thêm kính trọng. Và ngày nay, trong hiện tại việc trì tụng kinh Pháp Hoa rất lan rộng trong giới Phật tử, giúp họ rất nhiều trên bước tu tâm hành thiện theo đạo giác ngộ. Trong kinh Pháp Hoa có một câu dạy rất đặc biệt, nêu lên mục đích ra đời của mười phương chư Phật, câu đó là Các đức Phật chỉ vì một việc trọng đại duy nhất mà ra đời, đó là vì khai ngộ cho chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật’. Như vậy kinh Pháp Hoa chính là kinh nêu rõ mục đích ra đời của Chư Phật, mà dưới đây là đại cương của kinh. Thiên kinh vạn quyển Phật nói ra cùng với những pháp môn tu hành trong đó như quán sổ tức, quán bất tịnh, tham thiền, trì trai giới, an cư kiết hạ… đều chỉ đưa đến mục đích làm Phật. Có kinh nói rộng, có kinh nói đơn giản. Nhưng tựu trung, chẳng có pháp môn nào dễ dàng để tu thành Phật. Pháp môn nào cũng khó. Quán bất tịnh phải quán thật sâu xa, kỹ càng chứ không phải quán qua loa mà thành được. Sổ tức cũng không phải dễ, không cứ chỉ thở vô thở ra vài hơi là xong. Tham thiền, trì trai giới, các môn tu khác cũng đều khó như vậy cả. Vậy mà theo kinh Pháp Hoa, thì việc thành Phật quả dễ. Nhược nhân tán loạn tâm, nhập ư tháp miếu trung, Nhất xưng Nam Mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo’. Nếu người tâm tán loạn, đi vào trong tháp Phật, niệm một lần Mô Phật’, cũng đủ thành Phật đạo. Hoặc chỉ chắp tay hay cúi đầu trước tượng Phật, cho đến trẻ con chơi cát đắp thành tháp Phật mà cũng thành Phật được. Một quyển kinh ại Thừa cao nhất là Pháp Hoa, rốt cuộc dạy một chuyện dễ dàng như vậy, thì hà tất phải tham thiền, giữ giới, kiết hạ an cư ? Cho nên ngài Thường Bất Khinh đã chọn một cách để làm Phật. Ngài không sổ tức, không nhập định, không quét nhà, làm đường, chỉ đi gặp ai cũng nói câu Tôi không dám khinh Ngài, vì Ngài hành Bồ Tát đạo, Ngài sẽ thành Phật’. Ngài Thường Bất Khinh là một vị Bồ Tát Tỳ Kheo, sống giữa chúng Tỳ Kheo tăng thượng mạn có thế lực dưới thời tượng pháp của đức Phật Oai Âm Vương trong quá khứ. Ngài chỉ làm mỗi một việc là đến nơi mọi người, chắp tay cung kính xướng câu Tôi không dám khinh Ngài, vì Ngài sẽ thành Phật’. Trong việc làm đơn giản đó, tuy nhiên, cần phải có một lòng tin mãnh liệt rằng Tất cả chúng sanh đều là Phật’ thì mới làm nổi. Lòng tin ấy nếu không có trí tuệ của Bồ Tát thì không thể có được. ó là Bát Nhã ba la mật; và Ngài làm việc ấy không phải một hai lần mà làm thường xuyên, không phải đối với một hai người mà đối với tất cả mọi người, đó là Tinh Tấn Ba la mật. Trong khi Ngài làm như vậy, có người nghe thì hoan hỷ, vì cho là một lời chúc tụng giá trị nhất, chúc làm vua cũng không bằng; nhưng cũng có người dửng dưng vì không hiểu Ngài muốn nói gì, rồi cũng có người nổi sân vì cho Ngài chọc tức mình, nên xua đuổi đánh đập. Vậy mà Ngài vẫn giữ một thái độ bình thản đối với cả ba hạng người ấy, đó là Nhẫn Nhục Ba la mật. Và mỗi khi đối trước ai nói lên câu Tôi không dám khinh người…’ là nói với một lòng kính cẩn tập chú chứ không phải cuồng loạn hời hợt, hình thức đó là Thiền định Ba la mật. Như vậy, ta thấy một việc làm ngó đơn giản song gom đủ ý nghĩa của Bồ Tát hạnh và sức mạnh của một lòng tin kiên cố Tin mình là Phật và tất cả chúng sanh đều là Phật. Chúng ta đã có ai dám tự tin mình là Phật chưa? Huống nữa là tin người khác là Phật ? Thật khó tin mà tin nổi một kẻ vừa nói láo, vừa mắng chửi cộc cằn kia là Phật được. Phải như một vị đại lương y, đứng trước một con bịnh có những triệu chứng ghê gớm Thổ tả, mê sảng, sốt mặt đỏ gay… Nhưng qua sự bắt mạch thấy rõ ba bộ thốn, quan, xích, đều đi hữu lực mà biết được tánh mạng người đó chưa hề gì, và bảo con bịnh Ông không chết’. Sự quả quyết đó của lương y tạo cho người bịnh một lòng tin tưởng, một sức mạnh, một niềm hy vọng phấn khởi để vươn lên mà sống. Ngài Thường Bất Khinh nói với chúng sanh Các Ngài là Phật’, cũng trong ý nghĩa đó. Nếu chúng sanh vì tự thấy mình là chúng sanh, cam phận chúng sanh, nên cứ mặc tình trầm luân tạo nghiệp. Vì đã là chúng sanh vô phương cứu chữa, thì tội chi mà không trầm luân, tội chi mà không lăn lóc trụy lạc Thân lươn bao quản lấm đầu ? đã làm thân con lươn thì có ngại gì cái đầu bị lấm bùn lầy đã thấy mình thấp thỏi tầm thường thì không còn việc ác gì không làm, vì con người như thế, không tin rằng còn chút phẩm giá nào để vươn lên toàn thiện toàn giác được. Bây giờ, khi nghe nói rằng mình là Phật, có cơ trở thành bậc toàn thiện toàn giác thì trừ phi những người không muốn, ai cũng phải mừng rỡ, và nhờ đó các thói xấu cống cao ngã mạn, nhỏ nhen, bần tiện… khó mà nổi lên được. Có bao giờ một người, khi tự tin mình là Phật, mà lại cứ nhắm mắt sống theo thói ăn cắp, nói láo, kiêu mạn, tật đố, sân si ? Cho nên tự tin mình là Phật thì ngay khi đó mình là Phật. Quán kinh dạy Thị tâm thị Phật, thị tâm tác Phật’. Tâm đó là Phật, tâm đó làm Phật, không tâm nào khác hơn. Ngài Thường Bất Khinh thấu hiểu lý ấy trong Kinh Pháp Hoa, nên Ngài chỉ hành Pháp Hoa mỗi một cái hạnh bất khinh’ ấy, tức là không khinh người và không tự khinh mình. Lòng tin Tất cả chúng sanh là Phật’ nó dễ kết hợp mọi người lại với nhau như nước tìm đến nước. Nước với lửa mới chống trái nhau, còn nước với nước thì dù có nước ở bất cứ nơi nào, sông, ngòi, ao, hồ, mương, lạch, dù trong đục, sạch dơ, đều tìm về biển. Tất cả mọi người có được lòng tin mình là Phật cũng thế, cũng tìm về với nhau trong biển cả ại Giác. ó là điểm chính, là cốt tủy, cho nên trong kinh Pháp Hoa, Phật thọ ký cho tất cả hàng Thanh Văn đều thành Phật. Trước đó đối với hàng Thanh Văn, Phật chỉ dạy pháp Tứ ế, 12 nhân duyên. ến hội Pháp Hoa, Phật mới thọ ký Thanh Văn thành Phật. ây là điểm đặc biệt của Pháp Hoa hội. Mặc dù có nhiều kinh điển khác đều nói đến Phật tánh, nói tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật, nói đến trí tuệ và mục đích ra đời của Chư Phật, nhưng chỉ nói chung chung. Như trong kinh Hoa Nghiêm, Bát Nhã, Phật chỉ thọ ký cho hàng Bồ Tát, còn đối với hàng Thanh Văn thì dạy cho các pháp tu để thành Bích Chi La Hán, chứng nhập Niết Bàn. Những người này tu theo các pháp môn Phật dạy, được chứng quả Thanh Văn liền cho rằng đã viên mãn, nên đến hội Pháp Hoa khi Phật sắp sửa nói, Ngài lại muốn thôi, chính vì nghĩ đến hạng tăng thượng mạn này Chỉ chỉ bất tu thuyết, ngã pháp diệu nan lư, chư tăng thượng mạn giả, văn tất bất kính tín.’ Thôi thôi chẳng nên nói, Pháp ta vi diệu khó lường, những kẻ tăng thượng mạn nghe sẽ không kính tin. Ngài Xá Lợi Phất phải cầu xin năn nỉ đến lần thứ ba, Phật mới dạy rằng Ông đã ba phen cầu thỉnh, chẳng lẽ Ta không nói’. Khi Ngài sắp sửa nói thì năm ngàn Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, nam nữ cư sĩ đảnh lễ Phật mà lui ra, vì cho rằng tất cả pháp Phật dạy, mình đã tu, đã đắc cả rồi còn gì để nói, còn gì để nghe nữa ? Sau khi những người này bỏ đi, Phật dạy rằng Lui đi cũng tốt’ thối diệc giai hỷ. Câu nói của Phật nghe tuồng như phũ phàng, tuồng như đối với năm ngàn người này lòng từ bi của Ngài không phổ cập đến. Trong khi ở hội Hoa Nghiêm, chỉ có hàng Bồ Tát lãnh hội được ý chỉ của Phật dạy, còn hàng Thanh Văn ngồi đó mà như đui như điếc; vậy mà Phật không đuổi ra, họ cũng không bỏ ra đi. Ở hội Pháp Hoa thì Phật nói Lui ra cũng tốt’ có phải phũ phàng xua đuổi không ? Không phải, bởi vì ở hội Hoa Nghiêm những vị Thanh Văn tuy không hiểu mà không có lòng tăng thượng mạn, không cho mình đã chứng đắc, nên cứ ngồi đó. Ngồi mà không khinh, không khiếp, không sợ. Còn ở hội Pháp Hoa, những vị Thanh Văn này lại tăng thượng mạn, chưa chứng đắc viên mãn mà tự cho đã chứng đắc viên mãn. Có tâm tăng thượng mạn như thế, mà cứ ngồi lì ở đó, hay nếu Phật bảo cứ ngồi đó đi’ thì thật là không ích gì cho chính bản thân họ mà còn gây chướng ngại cho những người nghe pháp. Và sở dĩ những người này tăng thượng mạn là vì họ chưa tin nổi rằng Tất cả chúng sanh đều là Phật’, họ chỉ tin rằng mình đã đắc quả A La Hán và chẳng những không tin chúng sanh là Phật, họ còn không tin nổi chính mình là Phật’, do đó mà họ đã bỏ ra đi, và Phật dạy rằng họ lui ra cũng tốt. Thành thử kinh Pháp Hoa có nghĩa Hội tam quy nhất, thọ ký thành Phật’. Trước kinh Pháp Hoa, Phật dạy nhiều pháp môn, mỗi pháp môn chứng một quả vị khác nhau như tu Tứ đế pháp đắc quả A La Hán, tu 12 nhân duyên đắc Bích Chi, tu Lục độ làm Bồ Tát… đến hội Pháp Hoa, khi sắp nhập Niết Bàn, Phật mới dạy những gì mà trước đó ngài chưa dạy được, đó là những pháp môn mà ngài dạy bấy lâu chỉ là những phương tiện để bước lên Nhất thừa. Trước kia Thanh Văn đã cho đó là pháp thật, quả thật, nên chăm chỉ tu, chứng và chấp thủ các quả vị đã chứng. Bây giờ Phật mới nói rằng Nhị thừa, Tam thừa đều không thật đều là phương tiện chỉ có Nhất thừa mới là thật, mới là cứu kính. Ngài Thiên Thai Trí Giả cho đó là khai quyền hiển thật, khai cận hiển viễn’ mở phương tiện ba thừa để hiển bày cái chân thật là Nhất thừa Phật đạo. Khai quyền’ là chỉ rõ tất cả các pháp môn Phật nói trước kinh Pháp Hoa đều chỉ là phương tiện để đi đến giáo lý thật của Pháp Hoa là Tất cả chúng sanh đều là Phật’. iều mà mười phương chư Phật đều làm xuất hiện ra ở đời để khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến’. iều này, đức Thích Ca Bổn Sư cũng không làm khác với chư Phật 10 phương. Một mặt vì tất cả chúng sanh đều là Phật, một mặt vì bản hoài của tất cả chư Phật ra đời vì một mục đích duy nhất là khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến, một mặt vì trí tuệ chư Phật thậm thâm đủ cả hai mặt căn bản trí và quyền trí, thấu hiểu cùng tận được thật tướng các pháp nên mới khai quyền hiển thật được. Thật tướng đó là 10 như’ như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bổn mạc cứu cách. Mười như này là tướng sai biệt của thật tướng các pháp. Ngài Thiên Thai lấy mười như’ đó phối hợp, với mười giới’ gọi là thập pháp giới với năm ấm, hữu tình thế gian và khí thế gian mà thành bách như thiên như… Thiên Thai tông có danh từ Tam thiên nhất niệm; nhất niệm tam thiên’ là để chỉ cái lý chân thật mà chư Phật đồng chứng như nhau, đó là ba điểm sau đây Thật trí, quyền trí chư Phật đồng nhất. Phật tánh chúng sanh cùng đồng nhất. Bản hoài chư Phật cũng đồng nhất, nên Phật chỉ dạy mỗi một đạo lý duy nhất, đó là đạo Nhất thừa. Nhưng trước khi khai thị để đưa chúng sanh về Nhất thừa, Phật phải nói loanh quanh gọi là phương tiện, để đến Pháp Hoa Ngài mới nói rõ Bản hoài của chư Phật. Do đó là kinh Pháp Hoa cao điểm của giáo lý Phật nên mới là Diệu Pháp. Ngài Thiên Thai chia hai thứ diệu’ là tương đối diệu và tuyệt đối diệu. Những pháp môn Phật dạy trước đây tuy diệu nhưng chưa tuyệt đối, như khi phân thành Thanh văn, Duyên giác thừa và ại thừa, thì ại thừa là diệu, nhưng chỉ diệu tương đối với Thanh văn, Duyên giác, chưa phải diệu thật sự tuyệt đối. ến hội Pháp Hoa thì không còn đối đãi với Thanh văn, Duyên giác mà gồm chung tam thừa vào nhất thừa, nên mới thật là diệu pháp. Pháp Hoa nói thật tướng các pháp, thật tướng đó là Tất cả pháp đều là Phật Pháp, tướng tánh bất nhị. Thế gian tướng thường trụ’. Tất cả pháp, bởi thế, đều là diệu pháp nhứt sắc nhứt hương vô phi trung đạo. Diệu pháp đó ví như hoa sen với những điểm 1. Sinh ra trong bùn mà không nhiễm bùn. 2. Khi hoa nở thì tỏa hương thanh khiết nhẹ nhàng. Nghĩa là những pháp mà Phật nói ở trong Diệu pháp Liên hoa cũng phát xuất từ tam thừa pháp, ví như hoa sen vẫn sinh từ bùn. Cái hoa diệu pháp từ trước bị vùi lấp trong bùn kiến chấp của tam thừa, đến hội Pháp Hoa thì hoa sen từ bùn nở ra mà không dính bùn, lại tỏa hương vi diệu. ạo Phật quả là đạo hoa sen. Phật ra đời đi bảy bước cũng đi trên bảy hoa sen có nghĩa Sáu hoa trước chỉ cho sáu đức Phật quá khứ là Tì Bà Thi, Thi Khí, Hoa thứ bảy là Phật Thích Ca vậy. Cũng có nghĩa khi mới phát tâm đức Thích Ca đem 7 hoa sen dâng cúng đức Phật Nhiên ăng, nên khi Ngài sắp thành Phật có 7 hoa sen đỡ chân ngài. Khi thành đạo, Ngài quan sát căn cơ chúng sanh qua hình ảnh những hoa sen trong hồ Có hoa đã vươn lên khỏi mặt nước, có hoa còn chìm, có hoa chưa ra khỏi bùn, nhưng tất cả đều là hoa sen và đều lên khỏi mặt nước tỏa hương khi gặp ánh sáng mặt trời. Chúng sanh cũng vậy, ở trong đống bùn phiền não mà cũng không dính bùn, vì chưa ra khỏi phiền não mà gọi là chúng sanh, đến khi gặp được mặt trời diệu pháp của Phật soi đến thì cũng đều nở. Ngài Huyền Trang khi đi thỉnh kinh, trong lúc chờ đợi cấp giấy đi đường, một đêm mộng thấy một ngọn linh sơn giữa biển. Ngài nhảy xuống biển liền có hoa sen đỡ đưa Ngài lên núi. Và trước khi thị tịch, Ngài cũng thấy hoa sen. Nhưng đó là hoa sen trong nước, còn thứ sen trong lửa như lời Thiền sư Ngộ Ấn Việt Nam Diệu tánh hư vô bất khả phân Hư vô tâm ngộ đắc hà nan Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận Liên phát lô trung thấp vị căn. Hay của ộng Sơn Lương Giới, Sư Tổ phái Tào ộng Lưỡng kiếm giao phong bất tu tị Hảo thủ do như hỏa lý liên Ám chỉ rằng ở trong cái lò lửa là thân ngũ uẩn uế trược đầy lửa phiền não của chúng sanh, hoa sen Phật tính vẫn tươi như thường. Chân Nguyên Thiền Sư Việt Nam cũng có câu “Trần trần sát sát Như Lai Chúng sanh mỗi người mỗi có hoa sen Hoa là bản tánh trạm viên Bao hàm trời đất dưới trên cùng bằng Hậu học đã biết hay chăng Tâm hoa ứng nguyện nói năng mọi lời.” Do đó mà kinh Pháp Hoa lấy dụ hoa sen. Trên đây là ý nghĩa tóm tắt kinh. Bây giờ để bổ túc, sẽ nói qua về bố cục kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Bố cục kinh pháp hoa Kinh này là một kinh dịch ra Hoa văn rất sớm, vào năm 286 TL do Ngài Trúc Pháp Hộ dịch đề là Chánh Pháp Hoa Kinh 10 quyển. Trước đó không lâu vào năm 256 TL tại Giao Châu có Ngài Chi Cương Lương cũng dịch lấy tên là Pháp Hoa Tam Muội 6 quyển, nhưng hiện trong Tạng chỉ có một quyển Pháp Hoa Tam Muội do Trí Nghiêm đời Lưu Tống dịch. ời ao Tần, Ngài La Thập dịch vào năm 404 lấy tên Diệu Pháp Liên Hoa 7 quyển. ời Tùy năm 601 TL hai Ngài Xà Na và Cấp a cũng dịch lấy tên là Thiên Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa 7 quyển. Bộ Pháp Hoa thường được nghiên cứu học hỏi là bộ do Ngài La Thập dịch 7 quyển 28 phẩm. Thiên Thai tông chọn kinh này làm bản kinh chính yếu để lập tông, và chia 28 phẩm ra làm hai phần Phần đầu gồm 14 phẩm trước, gọi là tích môn tích hóa, gọi tắt là tích môn, phần sau gồm 14 phẩm sau, gọi là bản môn bản hóa, gọi tắt là bản môn môn dạy không phải là cửa mà là phương diện. Sự hóa độ của đức Phật có dấu tích, biểu hiện ra giữa trần gian cho chúng ta nghe được thấy được rõ ràng, thì gọi là tích môn. Tích phải có gốc từ đó nó phát sanh, cái gốc đó là bản môn. ức Phật Thích Ca hiện ra nơi đời tất phải từ một đức Phật Vô Lượng Thọ, và giáo pháp Ngài giảng nói cũng là pháp Ngài đã chứng từ vô lượng kiếp, gọi là bản môn. Như ánh trăng chiếu trên sông hồ, khi có khi không, khi còn khi mất, do nước có đầy vơi trong đục mà ra, nhưng trăng trên trời, thì luôn luôn có. Bản môn tức thọ mạng của Phật và giáo pháp của Ngài, sự giáo hóa của Ngài là vĩnh cửu, song tích môn thời Phật tùy giai đoạn, căn cơ, nghiệp lực chúng sanh mà có nơi hiện nơi không. Nói thế để biết, sự nhập Niết Bàn của Phật tại rừng Sa La là sự Niết Bàn của Tích môn, không phải của bản môn, đó là sự vắng bóng của trăng trong nước. Sự hiện sinh của Phật ở vườn Lâm Tỳ Ni cũng thế, chỉ là sự hiện diện của tích môn. Còn ức Phật của Bản Môn thì không sinh không diệt, như trăng trên trời. Chúng hội trong tích môn là chúng hội ở thế giới ta bà uế độ này, tại Kỳ Viên Tịnh Xá; còn chúng hội trong bản môn, ngay từ phẩm 11 trở đi, là chúng hội siêu thời gian không gian, không phải như ở trong tích môn có người ở ta bà nghe kinh và Kỳ Viên là nơi chốn. Nay hãy đi vào chi tiết. Tích môn 14 phẩm trước. Trong phần tích môn, thì phẩm Tựa đầu tiên bao gồm nhiều ý nghĩa tổng quát. Từ phẩm thứ 2 là phẩm Phương tiện đến phẩm thứ 9 Thọ Ký, đặc biệt là nói về Tích môn, mà phẩm Phương tiện là chủ yếu, còn 7 phẩm kế tiếp kia chỉ là diễn rộng đạo lý ở phẩm này cho hàng căn cơ chậm hiểu. Thiên Thai chia phần tích môn ra Tam châu Thuyết pháp châu có nghĩa là toàn vẹn. Trong việc khai quyền hiển thật, thì phẩm Phương tiện là pháp thuyết châu chỉ có hàng Thanh văn thượng căn mới hiểu, như Ngài Xá Lợi Phất, được Phật thọ ký ngay. Lần thứ hai, Phật phải giải thích bằng ba thí dụ gọi là dụ thuyết châu nghĩa là thay vì nói thẳng điều cần nói như ở phẩm Phương tiện, ở đây Ngài dùng ba thí dụ là thí dụ ba cõi như nhà lửa, đứa con khốn cùng và cây thuốc, để cho hàng trung căn tín giải và được thọ ký trong lần này như bốn vị Tu Bồ ề, Mục Kiền Liên, Ca Diếp và Phú Lâu Na. Ở phần dụ thuyết châu này gồm bốn phẩm là phẩm Thí dụ, Tín giải, Dược thảo, Thọ ký. Lần thứ ba gọi là Nhân duyên thuyết châu gồm phẩm Hóa Thành Dụ, Ngũ bách đệ tử, Thụ học vô học ký. Ở đây Phật nhắc lại cho các đệ tử Thanh Văn nhớ lại nhân tu của họ trong quá khứ. Họ đã từng gặp Phật, phát tâm ại thừa mà nay bị quên đi, nên Phật nhắc cho họ nhớ bản nguyện để phục hồi cái tâm hướng ại thừa của họ. Lần này rất đông người ngộ giải và được thọ ký. Tuy đề phẩm là Ngũ bách thọ ký’ nhưng kỳ thực là 1250 vị, nhưng năm trăm vị này danh tiếng mà thôi. Lần này, chẳng những hàng vô học La Hán được thọ ký, mà cả hạng hữu học cũng được. ây là hàng hạ căn đắc ký. ối tượng thuyết pháp Phật nhắm đến là hàng Thanh văn hồi tiểu hướng đại, khiến họ đi vào Nhất thừa. Nói rộng ra, là thọ ký cho tất cả chúng sanh. Có hai lối thọ ký biệt thọ ký và thông thọ ký. Biệt thọ ký là thọ ký từng người, từng nhóm người sẽ thành Phật ở thế giới tên gì, Phật hiệu gì, Hàng Thanh văn được thọ ký trong hội Pháp Hoa là biệt thọ ký. Nhưng về sau, có những thọ ký chung cho những người tu sau khi Phật đã Niết Bàn. Bởi vì trong một hội chúng nghe pháp, bao giờ cũng có bốn hạng người là Chúng khải thỉnh, những Ngài thưa thỉnh để Phật nói pháp cho mọi người khác nghe. ó là những vị Bồ Tát đã ngộ, nhưng phương tiện thưa hỏi vì chúng sinh. Hoặc là những người đương cơ’ mà lợi căn biết đặt câu hỏi. Chúng đương cơ, đối tượng chính của buổi thuyết pháp. Phật nhắm ngay hạng này mà nói, vì hạng này có thể lãnh hội lời Phật dạy. Trong hội Pháp Hoa, chúng đương cơ là hàng Thanh văn hồi tiểu hướng đại, được Phật dùng phương tiện dắt dẫn lên Nhất thừa. Chúng tán dương, là những Bồ Tát đã được thọ ký, đã nghe kinh này rồi, nhưng vẫn ngồi đó để tán dương Phật, Pháp, tán dương sự nói pháp và người nghe pháp. Chúng kết duyên, lại có hạng người nghe mười câu mà chỉ hiểu một, nghe sau quên trước, nhưng đó vẫn là một cách kết duyên để sau này được hiểu Phật và làm Phật vậy. Nói thế để hiểu rằng, chúng đương cơ trong kinh Pháp Hoa là hạng người nào, để hiểu được tinh thần kinh. Trên đây là tóm tắt ý nghĩa chín phẩm trước. Từ phẩm mười Pháp Sư đến phẩm mười bốn An lạc hạnh là bổ túc cho tám phẩm trước là những phẩm chính của tích môn tích hóa. Trong phẩm mười này Phật thọ ký chung tất cả những ai có nghe kinh niệm Phật. Vì vậy đạo lý Pháp Hoa là một đạo lý cần được tuyên dương hoằng hóa, và người nói kinh này cần thành tựu ba việc để sự nói kinh được viên mãn, đó là nhập Như Lai thất, trước Như Lai y, tọa Như Lai tòa vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai. Phẩm Hiện bảo tháp thứ mười một, một bảo tháp của Phật a Bảo từ dưới đất vọt lên khen ngợi. Ý nghĩa ở đây là Phật vốn bất diệt. ức Phật a Bảo diệt mà bất diệt, để hiện thị ức Thích Ca sanh mà không sanh. Hai Ngài ngồi chung một tòa, bởi vì cùng bất sanh bất diệt như nhau. Lại nữa, a Bảo còn là biểu thị Phật tánh sẵn có trong đất phiền não khi gặp được kinh Pháp Hoa thì hiển lộ. Phẩm ề Bà ạt a thứ mười hai, trong những kinh khác, ề Bà là một người tạo đủ các tội lỗi, nghiệp chướng nặng nề. Nhưng đến kinh này, thì phật cho biết vô lượng kiếp về trước, ề Bà đã là thiện tri thức giúp Ngài thành Phật qua việc ông đã nói lại kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Chứng tỏ năng lực kinh này đã làm cho Phật thành Phật và cũng làm cho một người ác như ề Bà mà cũng thành thiện tri thức được nhờ nói lại kinh Pháp Hoa. Lại còn có chuyện Long nữ thành Phật, làm cho Ngài Xá Lợi Phất phải ngạc nhiên đã làm súc sinh, lại mang thân nữ, ở đời coi như vậy là hết chỗ đứng, vậy mà vẫn thành Phật được, chứng tỏ những chúng sinh nào tin được kinh này thì đều thành Phật, và chứng đắc đạo lý Phật tính bình đẳng của Pháp Hoa là không phân biệt nam nữ trời rồng, người hay súc sinh. Thật là một sự bình đẳng tuyệt đối. Phẩm An lạc thứ mười bốn, muốn nói kinh Pháp Hoa ở đời ngũ trược khỏi bị chướng ngại, phải an trụ bốn hạnh là không tích hạnh, ly kiêu mạn hạnh, ly tật đố hạnh và từ bi hạnh. Hay thân an lạc hạnh, khẩu an lạc hạnh, ý an lạc hạnh, và an lạc thệ nguyện. Bản môn bản hóa Từ phẩm 15 cho đến hết. Phẩm Tùng ịa Dõng Xuất thứ 15, từ phẩm này trở đi toàn nói đến những cảnh giới vượt ngoài tầm hiểu biết thông thường của người phàm. Từ dưới đất trồi lên vô số Bồ Tát, như ở phẩm 11 Tháp ức a Bảo cũng từ đất vọt lên, phẩm này cùng với phẩm 16 là Phẩm Như Lai Thọ Lượng Cả hai phẩm 15, 16 này là phần chính của Bản môn. Phật nói Ta vốn ở trong Ta Bà Thế Giới này từ vô lượng kiếp chứ không phải mới sinh’. Bản môn này là gốc, từ đó mà có ra tích môn, là sự đản sinh của Phật tại Lâm Tỳ Ni vậy. Tiếp đến, Phật phân biệt công đức của Người trì kinh ở phẩm Phân Biệt Công ức. Phẩm Tùy Hỷ Công ức là Tùy hỷ với người nghe kinh, khuyến khích người khác nghe Pháp Hoa mặc dù mình không nghe cũng được có công đức thuộc hạ phẩm. Phẩm Pháp Sư Công ức thứ 19 là chỉ cho trung phẩm công đức nhờ nghe, đọc tụng diễn nói kinh này. Phẩm Thường Bất Khinh thứ 20, là nói đến Thượng phẩm công đức của Ngài Thường Bất Khinh, tức công đức hành hạnh Pháp Hoa, như đã nói trên. Nói xong phẩm này, Phật hiện thần lực phẩm 21 để chứng minh thêm công đức đó, và Chúc lụy phẩm 22 rằng kinh này nên được lưu truyền rộng rãi. Từ phẩm 23 đến cuối có thể gọi là phần lưu thông, sự hoằng kinh Pháp Hoa do những vị Bồ Tát, hoằng kinh bằng những khổ hạnh của mình như phẩm Dược Vương, Diệu Âm, hoằng kinh do sự cứu khổ nạn cho chúng sinh như phẩm Quán Thế Âm Phổ Môn hay bằng thần chú lực hộ trì cho người đọc tụng diễn nói Pháp Hoa như phẩm à La Ni 26… Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương phẩm 27 kể một ông vua tà kiến, nhưng có bà vợ và hai con trì kinh Pháp Hoa đã tìm đủ cách để cải hóa cha, cuối cùng vua chịu đi nghe kinh Pháp Hoa mà trở thành Bồ Tát. ây là nói lúc hộ trì của kinh, có năng lực cải tà quy chánh. Phẩm 28 là phẩm Phổ Hiền, khuyến khích hoằng kinh. Ngài Trí Khải cho 14 phẩm sau này là bản môn bản hóa, nhưng chủ yếu bản môn chính thức là chỉ có 2 phẩm 15 và 16. Vị trí kinh Pháp hoa Theo sự phân giáo của Ngài Thiên Thai và Cát Tạng Thiên Thai tông và Tam Luận tông có 5 thời kỳ thuyết pháp của Phật là Hoa Nghiêm, A Hàm, Bát Nhã, Phương ẳng và Pháp Hoa, Niết Bàn. Trong đó lại chia ra ba giai đoạn chuyển pháp luân tam pháp luân là Căn bản pháp luân Kinh Hoa Nghiêm, khi Phật nói kinh này chỉ một số rất ít người hiểu, nên Ngài mới tùy phương tiện nói ra ba thừa đó là Chi mạt pháp luân Trước hết là thời A Hàm, nhưng vì hàng Thanh văn thiên chấp kinh này, nên Phật lại nói hai thời giáo kế tiếp là Bát Nhã và Phương ẳng để đưa lên ại thừa. Nhưng ại thừa này chưa rốt ráo, vì mới chỉ thọ ký cho hàng Bồ Tát thành Phật, chưa thọ ký cho Thanh Văn. Do đó giáo pháp ở các thời này vẫn còn là chi mạt cành ngọn. ến giai đoạn thứ ba Nhiếp mạt quy bổn Pháp luân Mới là pháp luân rốt ráo của Phật, đó là thời giáo Pháp Hoa gồm hết những chi mạt về căn bản. Mở đầu là Hoa Nghiêm, kết thúc là Pháp Hoa, đấy là thủy chung của một thời giáo hóa mang cùng một ý nghĩa nhưng hai phương pháp khác nhau Hoa Nghiêm thì nói thẳng nên chỉ có một số Bồ Tát giải ngộ được mà thôi, còn Pháp Hoa thì dùng nhiều cách nói để đưa người đến giác ngộ, tùy căn cơ chúng sanh Phật đã nói những kinh khác, cho đến Pháp Hoa thì Phật gồm tất cả giáo lý 45 năm đã nói. Vì tính cách quan trọng đó của kinh này mà Ngài Trí Khải đã căn cứ để lập ra Thiên Thai tông rất thịnh hành. Khi truyền qua Nhật Bổn, đến năm 1222 có sư Nhật Liên dựa vào Pháp Hoa Huyền Nghĩa của Ngài Trí Giả mà lập ra Nhật Liên Tông đến nay vẫn thịnh hành. ấy là chưa kể trước đó 6,7 thế kỷ, Thánh ức Thái Tử Shotaku-taishi người có công lớn du nhập và truyền bá ạo Phật ở Nhật, ông nhiếp chánh những năm 593-622, sau khi chú giải kinh Duy Ma, Thắng Man và Pháp Hoa, ông đã dựa vào đó để soạn thảo và công bố bản Hiến Pháp 17 điều đầu tiên của Nhật, mà tinh thần của nó đến nay vẫn còn giá trị.

thi vinh phap hoa kinh